Việc Ngân hàng trung ương Mỹ (FED) duy trì lãi suất lâu hơn dự kiến, thậm chí còn có thể tăng lãi suất đã làm gia tăng rủi ro lãi suất trên thị trường hiện nay. Do đó, Trái phiếu chính phủ với lãi suất cố định thấp đã ghi nhận giảm sức hấp dẫn với các nhà đầu tư.
ĐIỂM TIN KINH TẾ – TÀI CHÍNH
1. Tin Quốc tế
Lý do FED trì hoãn việc giảm lãi suất
Báo cáo việc làm tháng 3 cho thấy, Mỹ tạo thêm được 303,000 việc làm mới trong tháng 3, cao hơn nhiều so với con số 200,000 việc làm mới theo dự báo trung bình của các nhà kinh tế. Bình quân mỗi tháng trong quý đầu năm, kinh tế Mỹ tạo thêm được 276,000 việc làm mới, cao hơn nhiều so với mức bình quân của quý cuối năm 2023 là 212,000 việc làm mới. Tăng trưởng việc làm mạnh mẽ đã kéo tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ giảm nhẹ về mức 3.8% trong tháng 3 từ mức 3.9% của tháng 2. Do đó, nhiều quan chức FED mới đây cũng lên tiếng kêu gọi không nên vội vàng cắt giảm lãi suất do áp lực lạm phát vẫn còn lớn.
Lạm phát thế giới chịu sức ép từ giá dầu
Việc cắt giảm sản lượng liên tục của các quốc gia sản xuất dầu lớn, bao gồm những thành viên của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) và những căng thẳng địa chính trị tiếp tục dấy lên lo ngại về khả năng gián đoạn nguồn cung ở các khu vực sản xuất dầu quan trọng. Ngoài ra, các cuộc tấn công vào tàu vận tải ở Biển Đỏ càng làm tăng thêm tâm lý bi quan trên thị trường. Thị trường vẫn đang nghiêng về triển vọng giá dầu tăng, khi OPEC+ đã gia hạn các biện pháp cắt giảm sản lượng cho đến cuối tháng 6. Điều này có thể gia tăng lạm phát toàn cầu trong thời gian tới.
2. Tin Trong nước
Giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 32/CĐ-TTg ngày 5/4/2024 gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước, điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả hơn; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp phù hợp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay gắn với tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng, phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các TCTD… Đến nay, lãi suất bình quân huy động và cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới lần lượt ở mức 3.1%/năm và 6.5%/năm, giảm tương ứng khoảng 0.4%/năm và 0.6%/năm so với cuối năm 2023. Việc NHNN yêu cầu hệ thống NHTM công khai các mức lãi suất bình quân, đã tác động rất tích cực đến tâm lý đầu tư, tâm lý kinh doanh.
Tăng trưởng tín dụng dương trở lại
Lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh cho thấy thanh khoản hệ thống đã không còn quá dư thừa trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước đã hút về khoảng 172,000 tỉ đồng qua kênh tín phiếu và nhu cầu cân đối gia tăng vào dịp cao điểm cuối quý 1 và đầu quý 2. Theo số liệu mới nhất được Ngân hàng Nhà nước công bố, tính đến ngày 25/3, tín dụng nền kinh tế tăng 0.26% so với cuối năm 2023 sau hai tháng liên tiếp duy trì ở mức âm. Tín dụng có dấu hiệu hồi phục khi tăng trưởng dương trở lại. Cầu vốn trở lại một số ngân hàng cũng bắt đầu tăng nhẹ lãi suất tiền gửi tiết kiệm, nhằm tăng thanh khoản đón cầu tín dụng.
Lãi suất huy động đảo chiều
Một số ngân hàng bất ngờ tăng lãi suất tiền gửi trở lại trong những ngày cuối tháng 3-2024: VPBank, BIDV, Eximbank, SHB, Agribank. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong khi tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đến ngày 25/3 đã đảo chiều tăng trở lại 0.26%, tăng trưởng huy động vốn vẫn ghi nhận mức sụt giảm 0.76% so với đầu năm. Xét theo số tuyệt đối, dư nợ tín dụng đã tăng thêm gần 133,000 tỉ đồng trong gần ba tháng đầu năm, ngược lại tiền gửi tại các ngân hàng đã giảm xấp xỉ 103,000 tỉ đồng, theo đó chênh lệch mức tăng giữa số dư tín dụng và tiền gửi lên tới gần 236.000 tỉ đồng.
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
1. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Lãi suất VND: tăng giảm đan xen. Chốt ngày 5/4, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 2.58% (-0.20%); 1 tuần 2.90% (-0.10%); 2 tuần 3.23% (+0.21%); 1 tháng 3.75% (+0.45%) so với phiên cuối tuần trước.
Lãi suất USD: tăng nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn. Phiên cuối tuần 5/4, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5.25% (+0.04%); 1 tuần 5.31% (+0.02%); 2 tuần 5.39% (+0.04%) và 1 tháng 5.42% (+0.02%) so với phiên cuối tuần trước.
Thời hạn |
Kết tuần 4 tháng 3 (22/03/24) | Kết tuần 5 tháng 3 (29/03/24) | Kết tuần 1 tháng 4 (05/04/24) | Biến động |
Qua đêm |
0.20 | 2.78 | 2.58 | -0.20% |
1 tuần |
0.48 | 3.00 | 2.90 |
-0.10% |
2 tuần | 1.20 | 3.02 | 3.23 |
+0.21% |
1 tháng | 1.76 | 3.30 | 3.75 |
+0.45% |
Bảng: Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng
Nguồn: Website Ngân hàng Nhà Nước
Dự báo thị trường tiền tệ
- Hiện nay, áp lực tỷ giá tiếp tục gia tăng, tuy nhiên, dòng chảy vào của đô la vẫn tiếp tục được dự báo sẽ ổn định nhờ. Vì vậy, lãi suất khó có thể giảm thêm và cũng khó có thể tăng mạnh. Ngoài ra, thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 32/CĐ-TTg ngày 5/4/2024 gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024, trong đó, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp phù hợp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay gắn với tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng, phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các TCTD.
2. Thị trường Trái phiếu chính phủ
Trên thị trường sơ cấp: Ngày 20/3, KBNN huy động thành công 7,095/14,500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 49%). Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 2,000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 10 năm huy động được 2,500/6,000 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 15 năm huy động được 2,595/5,000 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 5 năm và 30 không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm 1.5% (+0.03%); 10 năm là 2.45% (+0.06%); 15 năm 2.65% (+0.06%) so với phiên đấu thầu trước.
Trên thị trường thứ cấp: Từ 1-5/4, giá trị giao dịch Outright và Repos đạt trung bình 9,804 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 14,846 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tiếp tục xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 5/4, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1.78% (+0.20%); 2 năm 1.79% (+0.18%); 3 năm 1.81% (+0.19%); 5 năm 2.06% (+0.25%); 7 năm 2.27% (+0.04%); 10 năm 2.78% (+0.15%); 15 năm 2.96% (+0.15%); 30 năm 3.11% (+0.06%) so với phiên trước đó.
Kỳ hạn |
Lãi suất trúng thầu TPCP ngày 3/4 (KBNN) |
5 năm |
1.50% (+0.03%) |
10 năm |
2.45% (+0.06%) |
15 năm |
2.65% (+0.06%) |
Kỳ hạn |
Khối lượng gọi thầu KBNN ngày 10 /4 (tỷ VND) |
5 năm |
2,000 |
10 năm |
4,500 |
15 năm |
3,500 |
30 năm |
500 |
Bảng: Kết quả trúng thầu và khối lượng gọi thầu trên thị trường sơ cấp
Dự báo thị trường TPCP
- Tuần qua, tỷ lệ trúng thầu trên thị trường sơ cấp trở lại mức thấp, đi kèm lãi suất trúng thầu tăng ở các kỳ hạn so với tuần trước đó.
- Thị trường thứ cấp ghi nhận giá trị giao dịch giảm mạnh so với tuần trước đó đi kèm mức lợi suất tăng ở tất cả các kỳ hạn.
- Thị trường giao dịch có sự trầm lắng trước rủi ro FED có thể tăng lãi suất hoặc duy trì mức lãi suất hiện tại trong thời gian dài hơn so với dự kiến và rủi ro lãi suất với các sản phẩm có lãi suất cố định ở mức quá thấp như hiện nay.
3. Thị trường mở
Thị trường mở tuần từ 1-5/4, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 55,000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4.0%. Có 8,465.53 tỷ đồng trúng thầu trong tuần qua. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cộng 1,600 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất tăng từ 2.4%/năm lên 2.7% vào phiên cuối tuần.
Như vậy, NHNN bơm ròng 6,865.53 tỷ đồng ra thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng tín phiếu NHNN lưu hành tăng lên mức 172,798.8 tỷ đồng, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 8,465.53 tỷ đồng.
4. Thị trường ngoại hối
Trong tuần qua, tỷ giá tăng so với tuần trước
- Tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh giảm ở đầu tuần rồi tăng tăng trở lại ở cuối tuần. Chốt ngày 5/4, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24,038 VND/USD, tăng 35 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
- Tỷ giá VND/USD liên ngân hàng tiếp tục tăng. Kết thúc phiên 5/4, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24,960 VND/USD, tăng 150 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
- Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do tăng – giảm đan xen trong tuần. Chốt phiên 5/4, tỷ giá tự do cùng tăng 55 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25,435 VND/USD và 25,515 VND/USD.
Tỷ giá ngày 01/04/2024 | Tỷ giá ngày 01/04/2024 | ||||
Ngoại tệ |
Mua | Bán | Mua | Bán | Biến động |
USD |
23,400 | 25,154 | 23,400 | 25,189 | +35 |
EUR |
24,613 | 27,204 | 24,730 | 27,334 | +130 |
JPY |
151 | 167 | 151 | 166 |
-1 |
GBP | 28,818 | 31,852 | 28,813 | 31,846 |
-6 |
CHF | 25,290 | 27,952 | 25,267 | 27,926 |
-26 |
AUD | 14,900 | 16,468 | 14,985 | 16,562 |
+94 |
CAD | 16,862 | 18,637 | 16,778 | 18,544 |
-93 |
Bảng: Tỷ giá giao dịch tham khảo tại Sở giao dịch NHNN
Nguồn: Website NHNN
Dự báo thị trường ngoại hối
- Hiện nay, khả năng giảm lãi suất đồng đô la Mỹ của Fed được dự báo sẽ trì hoãn lâu hơn, giá vàng tăng vọt và đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu thô là những lý do quan trọng đẩy sức ép trên thị trường ngoại hối lên cao trong 3 tháng đầu năm. Áp lực của tỷ giá ngày càng lớn hơn khi đà tăng chưa dừng lại, đặc biệt là khi tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại đã vượt đỉnh lịch sử.
- Ngoài ra, trong cuộc họp báo chính phủ chiều ngày 3-4/4, lãnh đạo NHNN cho biết công cụ để giảm sức ép cho tỷ giá vẫn còn nhiều, trong đó có thể can thiệp để giữ ổn định nếu cần thiết.
- Tuy nhiên, giá đô la vẫn được dự báo sẽ ổn định nhờ vào dòng vốn đầu tư trực tiếp, thậm chí gián tiếp và xuất khẩu, du lịch. Vì vậy,áp lực chỉ là ngắn hạn và sẽ dịu đi vào cuối năm khi FED bắt đầu giảm lãi suất.
Quyền miễn trừ trách nhiệm
Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích đều đã được thu thập. đánh giá với mức cẩn trọng tối đa có thể. Tuy nhiên. do các nguyên nhân chủ quan và khách quan từ các nguồn thông tin công bố. nhóm thực hiện báo cáo là Phòng Nguồn vốn và Đầu tư – Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình – không đảm bảo về tính xác thực của các thông tin được đề cập trong báo cáo phân tích cũng như không có nghĩa vụ phải cập nhật những thông tin trong báo cáo sau thời điểm báo cáo này được phát hành.